NDVN: Lời phi lộ về Tin Lành đạo rối ở Việt Nam, là trích lời phát biểu của Tướng CA Trần Bạch Đằng, một đoạn bài viết HIỂM HỌA TIN LÀNH ĐẠO RỐI , và một đoạn bài viết NHÀ NƯỚC CHXHCNVN VÀ NHÂN DÂN VIỆT HĂY TỐNG XUẤT TÀ ĐẠO TIN LÀNH RA BIỂN ĐÔNG , để góp ư với nhà nước CHXHCNVN có chính sách đối với Tin lành giáo, đội lốt tôn giáo làm t́nh báo cho đế quốc Mỹ và để thực hành chủ nghĩa li khai, giải lănh thổ, khấy động DBHB nổi loạn Đèo Văn Long ở Việt Bắc 1999 và Ban Mê Thuột Tây Nguyên 2001,... dưới đây:
* Tướng CA Trần Bạch Đằng đă gọi Thiên Chúa giáo [Kytô giáo: Da-tô và Tin lành] là một tổ chức, nghĩa là không coi đó là một tôn giáo, chỉ coi đó là một tổ chức nên có vấn đề cần phải đối phó. ( Việt Nam Những Sự Kiện Lịch Sử Trong Thế Kỷ 20, của Lê Trọng Văn, tr II, III, IV, V, VI )”
*…Trong cuốn Hăy Cứu Thánh Kinh Khỏi Phái Bảo Thủ (Rescuing the Bible From Fundamentalism), Giám mục Spong viết:
- Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Dê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả. (There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical).
- Cuốn Kinh Thánh đă làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một Thiên Chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng. (A literal Bible presents me with far more problems than assets. It offers me a God I cannot respect, much less worship) HIỂM HỌA TIN LÀNH ĐẠO RỐI
* Và NHÀ NƯỚC CHXHCNVN VÀ NHÂN DÂN VIỆT HĂY TỐNG XUẤT TÀ ĐẠO TIN LÀNH RA BIỂN ĐÔNG đă tuyên xưng cái gọi là “Tuyên Ngôn Thuộc Linh”:
Dân tộc Việt Nam chắc chắn thuộc về Đức Chúa Trời. Mọi xiềng xích tội lỗi và rủa sả của các thế hệ trước đă bị tuyên bố cắt đứt, h́nh ảnh con rồng, tức con rắn xưa là ma quỷ kể từ nay không c̣n tiếp tục được ảnh hưởng trên dân tộc Việt Nam. Việt Nam thuộc về Đức Chúa Trời, từ nay dân tộc Việt Nam sẽ được phước, Hội thánh Việt Nam sẽ bước vào một cơn phấn hưng chưa từng có và trong một tinh thần hiệp một khắng khít trước mặt Đức Chúa Trời... Đó chính là nội dung chính của "Tuyên ngôn thuộc linh" được dơng dạc tuyên bố trước hàng ngàn trái tim ngày đêm quặn thắt cho dân tộc.
Chúng ta thấy, họ là những kẻ điên, không phải là những con người có đầu óc b́nh thường. Họ có quyền tin thờ một người dân thường Do Thái sống với một ảo tưởng, Giê-su; họ có quyền dâng trọn đời sống, hay chết, cho người họ tôn thờ; họ có quyền tôn cao danh Đức Chúa Trời của họ, nhưng họ ngu xuẩn đến mức là không biết rằng họ tuyệt đối không có quyền xúc phạm đến cả dân tộc Việt Nam như trên. Tỷ lệ Tin Lành ở Việt Nam so với Công Giáo không đáng kể. Và Tin Lành đang suy thoái khắp nơi trên thế giới, kể cả trên nước Mỹ. Vậy mà họ vẫn huênh hoang muốn đem đồ phế thải về làm ô nhiễm dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, họ ngu xuẩn là v́ cái “gen” Tin Lành của họ, và từ cái “gen” này họ mới có những hành động ngu si vô trí. Nhưng vấn đề là tại sao Nhà Nước lại để cho họ ăn nói như vậy. Đây không phải là vấn đề “tự do ngôn luận”, hay vấn đề “tự do tín ngưỡng” mà là vấn đề xúc phạm đến cả một dân tộc mà đa số tuyệt đối người dân coi Tin Lành như một “tà đạo”. Phải chăng đă có sự mua chuộc trong tầng lớp cán bộ. Nhà Nước không có trách nhiệm ǵ trong vụ ăn nói bừa băi này hay sao? Và tại sao người dân phi Tin Lành không có phản ứng trước những lời hỗn hào láo xược như trên của Tin Lành? Tôi không hô hào một cuộc chiến tranh tôn giáo, nhưng tôi tha thiết kêu gọi tầng lớp trí thức Việt Nam trong Tam Giáo, trong các tôn giáo khác ở Việt Nam, hăy tham gia mặt trận văn hóa, thẳng thắn vạch ra những cái tầm bậy của Tin Lành. Ngày nay, chúng ta có đầy đủ những thông tin về bản chất và thực chất của Tin Lành ....
*********
ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY
Trần Thanh Giang
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨ VĂN HÓA
Trường Đại Học Văn Hóa Hà Nội
NGHIÊN CỨU VĂN HOÁ - SỐ 3
Tóm tắt
Là một tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Tin lành đă có mặt ở Việt Nam hơn 100 năm. Trong quá tŕnh tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Tin lành đă chọn lựa các h́nh thức hoạt động mềm dẻo, giáo lí và lễ nghi được đơn giản hoá, quần chúng hoá. Ở nhiều nơi đạo Tin lành đă thích nghi dễ dàng với phong tục tập quán của người địa phương, số lượng tín đồ đạo Tin lành ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, những ảnh hưởng của nó tới đời sống chính trị xă hội, tâm lư lối sống, phong tục tập quán... đang đặt ra nhiều vấn đề khá phức tạp và nhạy cảm. Bài viết khái quát một số đặc điểm lịch sử về đạo Tin lành ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra hiện nay.
Sự h́nh thành Đạo Tin Lành và một số đặc điểm nhận biết
1.1 Sự h́nh thành đạo Tin lành
Nếu so sánh với các tôn giáo lớn trên thế giới như Phật giáo, Công giáo hay Hồi giáo th́ Đạo Tin lành ra đời muộn hơn cả. Tuy nhiên, kể từ khi ra đời cho đến nay, đạo Tin lành đă phát triển rất mạnh, trở thành một tôn giáo quốc tế với khoảng 550 triệu tín đồ, gần 300 hệ phái tổ chức khác nhau và có mặt trên nhiều quốc gia.
Vào khoảng đầu thế kỷ XVI ở Châu Âu diễn ra sự phân biệt trong đạo Ki tô, dẫn tới việc ra đời của đạo Tin lành. Thực chất đó là cuộc cải cách tôn giáo và chính trị xă hội sâu sắc. Đạo Tin lành là kết quả của sự khủng hoảng đến mức trầm trọng về uy tín của Công giáo do những tham vọng quyền lực trần thế, sự sa sút về đạo đức của hàng giáo phẩm; là kết quả của sự lúng túng, bế tắc của nền thần học kinh viện thời trung cổ; là kết quả đầu tiên mà giai cấp tư sản mới ra đời giành được trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến mà chỗ dựa tư tưởng của giai cấp này là đạo công giáo.
Phong trào cải cách tôn giáo nổ ra đầu tiên ở Đức. Người khởi xướng và trở thành lănh tụ nổi tiếng của phong trào này là Matin Luther. Ông là người đă bỏ dở chương tŕnh Đại học Luật Erfurtđể quyết định “dâng ḿnh cho Chúa” rồi tu tại ḍng Oguxtino. Sau đó Luther trở thành giáo sư, tiến sĩ thần học của truờng Đại học tổng hợp Wittenberg. Khi có dịp sang Rôma, Luther đă hoàn toàn thất vọng v́ tận mắt chứng kiến đời sống xa hoa trần tục của số đông giáo sỹ. Với sự kiện này ông đă nhen nhóm những ư tưởng cải cách tôn giáo. Sau đó Luther đă công bố 95 luận đề với nội dung phê phán kịch liệt việc lợi dụng danh thánh để bóc lột dân chúng, lên án chức vụ giáo hoàng và giáo quyền Rôma...
Những quan điểm của Luther đă được đông đảo các tầng lớp nhân dân Đức ủng hộ, nhất là các công hầu quư tộc. Đến năm 1532, trước sự lớn mạnh của phong trào này, hoàng đế Đức đă phải thừa nhận sự tự do hoạt động của đạo Tin lành.
Thụy Sĩ cũng là trung tâm lớn thứ hai của cuộc cải cách tôn giáo gắn với tên tuổi của Jean Calvin. Ông là người Pháp, đă từng theo học thần học và luật học bằng học bổng của giáo hội Công giáo nhưng do hưởng ứng phong trào cải cách của Luther nên bị trục xuất khỏi Pháp và sinh sống ở Thuỵ Sĩ.Calvin đă nghiên cứu và h́nh thành một giáo thuyết riêng đồng thời cải cách về lễ nghi, giáo hội làm chuẩn mực cho phần lớn các hệ phái Tin lành đi theo...
Từ trung tâm Đức và Thuỵ Sĩ, phong trào cải cách tôn giáo phát triển nhanh chóng sang Pháp, Scotlen, Ireland, Hà lan, Anh , Nauy, Đan mạch... Đến cuối thế kỷ XVI đă h́nh thành một tôn giáo mới tách hẳn khỏi đạo Công giáo. Trong quá tŕnh phát triển của ḿnh, đạo Tin lành đă h́nh thành rất nhiều hệphái khác nhau như Trưởng lăo, Menhônai, Moóc Mông, Ngũ tuần, Giám lư, Thanh giáo và Giáo hội cộng đồng, Cơ đốc Phục lâm, Giáo hội thống nhất, Môn đệ đấng Chrits, Hội Liên hiệp Phúc âm truyền giáo...
1.2. Đặc điểm nhận biết của đạo Tin lành
Đạo Tin lành có nhiều tổ chức hệ phái mặc dù có những dị biệt về giáo thuyết, nghi thức hành đạo và cách tổ chức giáo hội nhưng nh́n chung đều thống nhất ở những nội dung, nguyên tắc chính. Có thể khái quát và so sánh với đạo Công giáo:
Trước hết về thần học: Đạo Tin lành là một nhánh của Kitô giáo nên cũng lấy kinh thánh Cựu ước và Tân ước làm nền tảng giáo lư. Khác với Công giáo, Tin lành đề cao vị trí kinh thánh, coi đó là chuẩn mực căn bản duy nhất của đức tin và sự hành đạo, nhưng không coi kinh thánh là cuốn sách của riêng giáo sĩ mà tất cả các tín đồ, giáo sĩ đạo Tin lành đều đọc, sử dụng, nói và làm theo kinh thánh.
Đạo Tin lành cũng thờ Thiên chúa và thừa nhận chúa 3 ngôi: Cha, Con, Thánh thần; tin muôn vật đều do thiên chúa tạo dựng. Nhưng trong tín điều về Đức Bà hoài thai chúa GiêSu một cách mầu nhiệm, đạo Tin lành cho rằng Chúa chỉ mượn [hiệp thông giao hợp ủy nhiệm cho một tên lính La Mă hiếp bà Maria hay bà ta hoang dâm với ai đó? cho nên Jesus mang khai hộ tịch và là đứa con hoang, NDVN] ḷng bà Maria làm nơi sinh thành chứ Maria không thể là mẹ của Chúa dù theo bất cứ nghĩa nào, thậm chí sau khi sinh ra GiêSu, Maria không c̣n đồng trinh nữa và c̣n sinh rất nhiều con cái: Giacôp, Giôdep, Ximôn, Gruđa... Chính v́ thế họ phản đối mọi sự thờ phụng bà Maria.
Là một tôn giáo đặc biệt đề cao lư trí trong đức tin. Do đó, luật lệ,lễ nghi, cách thức hành đạo của Tin lành đơn giản, không cầu kỳ rườm rà. Đạo Tin lành không thờ các tranh ảnh, hiện tượng cũng như dị vật phản đối việc hành hương đến các thánh địa. Trong 7 phép bí tích của đạo Công giáo, đạo Tin lành chỉ thừa nhận và thực hiện phép rửa tội và phép thánh thể. Nếu tín đồ đạo Công giáo xưng tội trong toà kín với linh mục là h́nh thức chủ yếu nhất th́ tín đồ đạo Tin lành khi xưng tội và cầu nguyện có thể đứng giữa nhà thờ, đám đông để sám hối hoặc nói lên ư nguyện của ḿnh một cách công khai. Thánh đường của đạo Tin lành thường có kiến trúc hiện đại,đơn giản. Trong thánh đường chỉ có duy nhất cây thập giá, biểu tượng của Chúa GiêSu bị nạn.
Về nhân sự, đạo Tin lành cũng có giáo sĩ như công giáo. Giáo sĩ đạo Tin lành có hai chức: mục sư và giảng sư, không áp dụng luật độc thân như giáo sĩ đạo Công giáo. Và có một điều đặc biệt là giáo sĩ Tin lành có nhiều người là nữ. Các giáo sĩ tuy cũng được coi là người chăm sóc linh hồn cho tín đồ nhưng không có quyền thay mặt Chúa để ban phúc hay tha tội cho con chiên. [“đầu óc của đa số tín đồ Ki Tô Giáo, đặc biệt là Tin Lành, có một khuyết tật, họ là nạn nhân của một khoảng cách kiến thức đặt họ vào tŕnh độ hiểu biết tôn giáo thích hợp nhiều hơn với thế kỷ 17”. [Christians are victims of a knowledge gap which places them at a level of religious understanding much more appropriate to the 17th century] HIỂM HỌA TIN LÀNH ĐẠO RỐI NDVN].
Về phương diện tổ chức, đạo Tin lành không lập ra tổ chức giáo hội mang tính chất phổ quát cho toàn đạo mà đi theo hướng xây dựng các giáo hội riêng rẽ, độc lập với những h́nh thức khác nhau theo từng hệ phái, từng quốc gia. Trong tổ chức giáo hội, các hệ phái Tin lành chủ trương giao quyền tự trị cho các giáo hội cơ sở, chi hội, các cấp giáo hội bên trên h́nh thành phù hợp vớiđiều kiện hoàn cảnh cho phép. Giáo hội Tin lành không cấu thành bởi các vị giáo sĩ một cách cố định như Công giáo mà cả tín đồ, giáo sĩ tham gia thông qua bầu cử một cách dân chủ...
Nh́n chung, có thể thấy sự cải cách của Tin lành về cách thức hành đạo cũng như tổ chức giáo hội chịu ảnh hưởng đậm nét dân chủ và khuynh hướng tự do cá nhân (sic), giảm thiểu và bớt đi sự linh thiêng về luật lệ, lễ nghi, cơ cấu tổ chức của đạo Công giáo. Sinh hoạt tôn giáo không lệ thuộc nhiều vào việc lễ bái, nơi thờ tự, chức sắc... Người ta khó có thể đánh giá mức độ và nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ Tin lành qua việc họ có đến nhà thờ tham dự các sinh hoạt tôn giáo hay không. Đối với tín đồ Tin lành, nếu có đức tin th́ ở tại gia đ́nh với quyển kinh thánh, họ có thể chu toàn bổn phận của một tín đồ. [Kinh thánh, trong đó Sách Khải Huyền đă được Tổng Thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson phê b́nh một cách rất chính xác như sau: “Sách Khải Huyền là những lời nói dốt nát của một kẻ điên khùng” [President Thomas Jefferson referred to the Book of Revelation as “the ravings of a maniac”, West County Times, California, USA, Editor Steven Morris, 14 August, 1995, HIỂM HỌA TIN LÀNH ĐẠO RỐI NDVN].
Với lối sống đạo nhẹ nhàng đơn giản, không rườm rà và ràng buộc khắt khe như đạo Công giáo, lại đề cao tinh thần dân chủ trong các hoạt động về tổchức nên đạo Tin lành là một tôn giáo có màu sắc mới mẻ, thích hợp với lối sống của giai cấp tư sản, tiểu tư sản, công chức thị dân nói chung trong xă hội công nghiệp. Ngày nay, người ta dễ dàng nhận thấy những nước có nền công nghiệp tiên tiến là những nước có đông người theo đạo Tin lành như Thụy Điển, Nauy, Đan Mạch, Đức, Anh, Hà Lan, Mỹ…
Bên cạnh đó, cũng có thể nhận thấy rằng Tin lành ra đời khi các tôn giáo lớn đă tạo được nhiều h́nh ảnh ở những địa bàn nhất định. Ví dụ như Phật giáo ở Châu Á, Công giáo ở Châu Âu, Hồi giáo ở Trung cận đông... Trước thực tế đó, Tin lành một mặt nỗ lực lôi kéo Công giáo ở Châu Âu, mặt khác t́m đến vùng xa xôi hẻo lánh để phát triển đạo. Ở những vùng này, đạo Tin lành không chỉ khai thác lợi thế là một tôn giáo có lối sống đạo đơn giản, đề cao dân chủ và vai tṛ cá nhân mà c̣n nghiên cứu rất kỹ đặc điểm văn hoá tâm lư, lối sống của từng dân tộc ở những vùng này để có phương thức phù hợp. Đặc biệt những nơi có phong tục tập quán lạc hậu, Tin lành xuất hiện với những điều mới lạ và tiến bộlôi kéo người tin theo và trong những trường hợp đó đạo Tin lành phát triển rất nhanh. Vậy đối tượng tín đồ của Đạo Tin lành ngoài tầng lớp trí thức thị dân c̣n là dân tộc thiểu số.
[Thật ra,…Chúng ta thấy ngay, từ vài kết quả nghiên cứu nêu trên trong số hàng trăm kết quả nghiên cứu khác về nhân vật Dê-su, tất cả những niềm tin của các tín đồ Tin Lành (những người tuyệt đối tin vào sự không thể sai lầm của Kinh Thánh), bất kể là khoa học cộng với hàng trăm tác phẩm nghiên cứu về Kinh Thánh đă bác bỏ tất cả những chuyện hoang đường do Ki Tô Giáo dựng lên quanh nhân vật Dê-su, ngày nay đă không c̣n chỗ đứng trong giới trí thức và những người hiểu biết. Như Russell Shorto đă nhận định, phần lớn các tín đồ Tin Lành vẫn c̣n sống trong bóng tối của sự ngu si. Và những nhận định của Giám Mục Spong ở trên đă chứng tỏ rằng những chuyện hoang đường như Dê-su sinh ra từ một trinh nữ, Dê-su là con Thượng đế, Dê su là đấng cứu thế, vai tṛ “cứu chuộc”, “cứu rỗi” của Dê-su v..v.. chỉ là những điều mê tín trước thời Darwin đưa ra thuyết Tiến Hóa..
Trong cuốn Hăy Cứu Thánh Kinh Khỏi Phái Bảo Thủ (Rescuing the Bible From Fundamentalism), Giám mục Spong viết:
- Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Dê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả. (There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical).
- Cuốn Kinh Thánh đă làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một Thiên Chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng. (A literal Bible presents me with far more problems than assets. It offers me a God I cannot respect, much less worship)
Mặc dù được đánh giá là một tôn giáo “tiến bộ”, “năng động” và dễ thích nghi nhưng v́ đạo Tin lành đề cao vai tṛ của kinh thánh, thậm chí có một số hệphái Tin lành tỏ ra rất bảo thủ, không chấp nhận những điều ǵ trái với kinh thánh nên dẫn đến sự phản ứng đối kháng với văn hoá tín ngưỡng truyền thống của các tín đồ ở những nơi đạo Tin lành truyền bá. HIỂM HỌA TIN LÀNH ĐẠO RỐI , NDVN]
2. Đạo Tin lành ở Việt Nam
2.1.Đặc điểm lịch sử
Với những đặc điểm riêng về địa lư, lịch sử, văn hoá, dân cư... Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo và loại h́nh tín ngưỡng. Trước khi đạo Tin lành được truyền vào, Việt Nam đă có các tôn giáo lớn như Phật giáo, Lăo giáo, Công giáo. Đạo Tin lành có mặt ở Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XIX do tổ chức Tin lành Liên hiệp phúc âm và truyền giáo Mỹ (CMA) truyền vào. Tổchức này đă cử nhiều mục sư sang Việt Nam để t́m hiểu và thăm ḍ: Mục sưTiến sĩ A.B Sumpsm (1887); D.Leclacher (1893); C.H Reves (1897); R.A Jaffray (1899); S.Dayan (1901)... Đến năm 1911, CMA đă cử R.A.Jaffray, Paul.M.Husel, G.LoyHugher đến Đà Nẵng lập Hội thánh đầu tiên. Đây là sự kiện đánh dấu mốc cho sự truyền bá đạo Tin lành vào Việt Nam. Từ cơ sở ở Đà Nẵng, các giáo sĩ hội truyền giáo mở thêm một số cơ sở khác ở những vùng lân cận như: Hội An, Tam kỳ, Đại Lộc... và cử người dân đi truyền đạo ở Bắc kỳ và Nam kỳ với các hoạtđộng chủ yếu là: dịch kinh thánh, lập nhà in và mở trường đào tạo mục sư truyền đạo.
Tuy nhiên, chính quyền Pháp ở Việt Nam không ưa đạo Tin lành, họ lo ngại ảnh hưởng của Mỹ thông qua việc phát triển đạo Tin lành. Do đó đạo Tin lành trong thời kỳ này hoạt động rất khó khăn. Khi chiến tranh thế giới thứnhất xảy ra, thực dân Pháp cho rằng các giáo sĩ Tin lành làm gián điệp cho Đức nên đă ra lệnh đóng cửa nhà thờ Tin lành và cấm các giáo sĩ Tin lành hoạt động. Ngoài ra người Pháp c̣n dựa vào Hoà ước 6/6/1884 chỉ cho phép Thiên chúa giáo được truyền bá vào Việt Nam. Toàn quyền Đông dương đă cho đóng cửa nhà thờ, trục xuất giáo sỹ truyền giáo CMA. Phải tới năm 1927, khi phong trào dân chủ Pháp lên cao th́ những lệnh cấm này mới được huỷ bỏ. Thế nhưng trong sự cấm đoán đó, đạo Tin lành vẫn t́m mọi cách để phát triển. Tới năm 1918, CMA đă lập được 5 chi hội ở Bắc kỳ, 6 chi hộiở Trung kỳ và 5 chi hội ở Nam kỳ. Tất cả các chi hội Tin lành lúc đó đều được giấy phép hoạt động cả của khâm sứ 3 kỳ và đều lấy tên là : “Hội thánh Tin lành Đông Pháp” (MEI).
Từ năm 1924 đến năm 1927, đă có 4 Đại hội đồng của Đạo Tin lành được tổ chức. Đại hội đồng lần thứ IV ở Đà Nẵng đă bầu ra Ban Trị sự Tổng liên Hội thánh Tin lành Việt Nam do mục sư Hoàng Trọng Thừa làm Hội trưởng đầu tiên.
Trong thời kỳ chiến tranh Thế giới thứ 2, phát xít Nhật vào Đông Dương, t́nh h́nh chính trị xă hội phức tạp, Uỷ ban truyền giáo của CMA New York đă có lệnh triệu hồi tất cả các giáo sĩ rời Đông Dương. Hội thánh Tin lành Việt Nam rơi vào t́nh trạng suy thoái, các sinh hoạt tín ngưỡng của tín đồ cũng bị xáo trộn. Chiến tranh kết thúc, các giáo sĩ trở lại Việt Nam và các sinh hoạt của đạo Tin lành ở cả 3 miền được phục hồi.
Trải qua một quá tŕnh truyền bá và phát triển, đến năm 1954, đạo Tin lành có khoảng 60.000 tín đồ với gần 100 mục sư truyền đạo. Trụ sở chung của giáo hội Tin lành Việt Namđược đặt tại Hà nội.
Sau Hiệp định Giơnevơ (1954), đạo Tin lành ở hai miền Nam - Bắc có sự khác nhau. Ở Miền Bắc số đông tín đồ giáo sĩ bị đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch kích động nên đă di cư vào Nam. Những người ở lại miền Bắc đă lập tổ chức giáo hội riêng lấy tên gọi là Hội thánh Tin lành Việt Nam thường gọi là Tổng hội Tin lành miền Bắc với những hoạtđộng b́nh thường, phạm vi ảnh hưởng không lớn, số lượng tín đồ cũng tăng một cách không đáng kể. Ở miền Nam, những năm 1954 – 1975, lợi dụng cuộc chiến tranh xâm lược, đế quốc Mỹ, CMA đă lập ra Tổng liên hội thánh Tin lành Việt Nam thường gọi là Hội thánh Tin lành Việt Nam.
Giai đoạn này, đạo Tin lành ở miền Nam phát triển mạnh mẽ. Tin lành ra sức củng cố, mở rộng hệ thống tổ chức cơ sở tôn giáo, các cơ sở kinh tế văn hoá xă hội, mở rộng phạm vi truyền đạo ra nhiều địa bàn, nhất là ở Tây Nguyên. Hội thánh Tin lành miền Nam đă cho tách riêng hai “hạt” vùng dân tộc ít người ra khỏi người Kinh và lập ra “cơ quan truyền giáo người Thượng” dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các giáo sĩ Tin lành Mỹ, đồng thời, mở cửa cho các hệ phái Tin lành, các tổ chức xă hội văn hoá, nhân đạo, từ thiện của Mỹ vào truyền đạo và xây dựng cơ sở khắp miền Nam. Hội thánh Tin lành miền Nam rất chú trọng đào tạo mục sư và truyền đạo, nâng “Trường kinh thánh” thành “Viện kinh thánh thần học”toàn miền Nam, đầu tư mở hai trường kinh thánh trung cấp cho Tây nguyên. Hội thánh Tin lành c̣n đưa nhiều mục sư và truyền đạo ra nước ngoài đào tạo. Giáo hội Tin lành đă thành lập hệ thống tuyên uư trong quân đội nguỵ từ Bộ Tổng tham mưu đến quân đoàn, quân khu và những đơn vị đặc biệt. Họ đă tuyển chọn và đưa gần 100 mục sư và truyền đạo vào ngụy quân.
Bên cạnh CMA, ở miền Nam c̣n có hệ phái Tin lành cũng từ Mỹ du nhập vào từ những năm 30 của thế kỷ XX, phát triển chủ yếu sau những năm 50, đó là phái Cơ đốc Phục lâm. Đây là phái lớn thứ hai sau CMA, có hệ thống giáo hội với hơn 10.000 tín đồ, gần 40 mục sư, 34 nhà thờ và một số cơ sở tôn giáo xă hội khác. Hội thánh cơ đốc Phục lâm c̣n có hơn 20 hệ phái vào truyền giáo và xây dựng cơsở ở miền Nam như: Baptism, Pentecostim (Ngũ tuần), (Nhân chứng Giêhôva), Jehovah’s Witnesses...
Sau 1975, đất nước được hoà b́nh thống nhất, giáo sĩ người nước ngoài rút khỏi Việt Nam, một số giáo sỹ người Việt di tản, phạm vi và mức độ hoạtđộng của đạo Tin lành ở miền Nam thu hẹp lại. Hội thánh Tin lành Miền Nam c̣n khoảng 450 giáo sĩ, 487 nhà thờ. Các hoạt động của đạo Tin lành ở hai miền Nam Bắc vẫn tiếp tục phát triển tới năm 1990 đă có 300.000 người theo đạo Tin lành.
Những thập kỷ gần đây, các giáo phái Tin lành đă đẩy mạnh hoạt động như phục hồi các h́nh thức tôn giáo, phát triển tín đồ, củng cố giáo hội... Nhiều hoạt động như vận động lập lại các tổ chức cũ, quan hệ với bên ngoài... Cơ quan cứu trợ và phát triển Cơ đốc Phục lâm gần đây có thực hiện một số dự án viện trợ nhân đạo trong lĩnh vực y tế, giáo dục, thuỷ lợi, ngư nghiệp...
Điểm lại diễn biến 100 năm đạo Tin lành vào Việt Nam, chúng ta có thể ghi nhận rằng quá tŕnh này chịu sự tác động quá lớn của các sự kiện chính trị xă hội, nhất là khi đất nước bị chia cắt. Hội thánh Tin lành Việt Nam ngay từ đầu là một tổ chức chung nhưng sau đó lại bị chia rẽ bởi hai tổ chức giáo hội ở hai miền với những tính chất chính trị và quy mô khác nhau. Tuy vậy, đạo Tin lành đă có cơ sở trong quần chúng ở nhiều vùng trên đất nước ta, thực tế hiện nay đă có khoảng hơn 1,2 triệu tín đồ. Đặc biệt là khoảng 10 năm trở lại đây, đạo Tin lành phát triển đột biến ở Tây Nguyên, Tây Bắc và một số vùng dân tộc thiểu số khác đangđặt ra một số vấn đề nhạy cảm, phức tạp cần được giải quyết, tháo gỡ.
2.2. Một số vấn đề đặt ra hiện nay
Có thể thấy đạo Tin lành là vấn đề nổi trội đột xuất trong các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Sự hiện diện của cộng đồng Tin lành ở Việt Nam gần đây đă trở nên những điểm nóng khá phức tạp, nhạy cảm.
Trước hết đó là sự va chạm, xung đột với các tập tục gia đ́nh, xă hội, tín ngưỡng cổ truyền và các tôn giáo khác ở Việt Nam. Đối với mỗi người Việt Nam, thờ cúng ông bà, tổ tiên, thành hoàng và những người có công với làng, nước... là sự thiêng liêng, thậm chí đă thành tiêu chí hàng đầu về đạo đức của mỗi thành viên trong gia đ́nh, họ tộc, làng xóm. Những tập tục xuất phát từ trong nghi lễ chịu ảnh hưởng của Nho giáo, thể hiện ḷng hiếu thảo của con cái đối với ông bà, cha mẹ như giỗ chạp, ma chay, cưới xin đă góp phần vào nết đẹp văn hoá mang ư nghĩa nhân văn sâu sắc [HIỂM HỌA TIN LÀNH ĐẠO RỐI NDVN]
Trong khi đó, đạo Tin lành là một tôn giáo độc thần, chỉ thờ phụng mộtđức Chúa Trời duy nhất. Tin lành vốn chủ trương triệt để phản đối việc thờtranh ảnh, tượng thánh và nâng lên một bước nữa là chống lại việc thờ h́nh tượng.Điều kiện để trở thành tín đồ chính thức của đạo Tin lành là: không dự vào việc hương hoả, cúng cấp cùng các sự dị đoan, không nên dùng hoặc buôn bán các vật không hợp với tôn chỉ của đạo Tin lành như: thuốc phiện, rượu, các vật phẩm thờ cúng h́nh tượng.
Đạo Tin lành c̣n có những lí lẽ biện giải để chống đối với các tập tục gia đinh, tín ngưỡng cổ truyền như: Các ông thờ lạy tổ tiên được mấy đời? Thờ trong nhà chẳng qua được hai, ba, đời; thờ trong họ chẳng qua được đôi mươi đời, trước đôi mươi đời há không phải tổ tông xa nữa sao? Cho nên chúng tôi chỉthờ một ḿnh đức chúa Trời là tổ tông của chúng ta. Khi Tin lành du nhập vào Việt Nam, các nhà truyền giáo đă ra sức bài bác, tuyên chiến với hệ thống tín ngưỡng của người Việt như: xem địa lí,chọn ngày, thờ thổ công, thờ bà chúa Liễu Hạnh...
Vậy, cùng với sự phát triển của đạo Tin lành là sự thay đổi lối sống, tâm lư, t́nh cảm, sự phân giới về xă hội, văn hoá, tín ngưỡng dân tộc. Nó cũng tạo nên sự chia rẽ trong nội bộ gia đ́nh, ḍng họ, lưu tồn định kiến hoài nghi cộng sản, làm giảm sút ḷng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và nghiêm trọng hơn là các tín đồ Tin lành dễ bị các phần tử xấu lôi kéo chống đối chính quyền, nổi loạn....Đây quảthật là những thách đố đối với chúng ta.
Hơn nữa, hiện nay các thế lực thù địch và lực lượng chống đối muốn thông qua đạo Tin lành để thực hành chủ nghĩa li khai, giải lănh thổ. Ở Việt Nam,điều này đă trở thành hiện thực khi người ta thấy Tin lành lan toả một cách nhanh chóng ở những vùng đất “phên dậu” của tổ quốc: miền núi phía Bắc, Tây Nguyên..
Đặc biệt, sự phát triển của đạo Tin lành trong cácđồng bào dân tộc thiểu ở Tây Nguyên vừa là hệ quả vừa là tác nhân của những diễn biến chính trị phức tạp trên địa bàn này thời gian gần đây. Đạo Tin lành có mặt ở Tây nguyên từ những thập kỷ 20 của thế kỷ trước, kể từ đó, nó đă kiên tŕ, bền bỉ chiếm cả không gian, xă hội cao nguyên, xâm thực vào buôn làng, văn hoá truyền thống và thâm nhập vào các nhóm xă hội mới xuất hiện theo đà chuyểnđổi của nền kinh tế theo hướng thị trường hoá. Thí dụ: nhà thờ Tin lành thay thế cho nhà Rông trong việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cộng đồng của con người Tây nguyên. Lễ Noen, Phục sinh thay thế cho lễ Cơm mới, lễ Năm mới cổ truyền...
Số lượng tín đồ của đạo Tin lành ở vùng đất đỏ ba gian này ngày càng gia tăng và luôn chiếm ½ số tín đồ Tin lành cả nước. Các thế lực thù địch trên cơ sở này luôn ra sức kích thích, nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc hẹp ḥi, biệt lập li khai trong một bộ phận tầng lớp trên của các dân tộc Tây Nguyên, đồng thời lôi kéo các lực lượng này vào các phong trào bạo loạn nhằm khuynh đảo thểchế chính trị ở nước ta.
Hiện nay hùa theo chiến dịch: nhân quyền và tự do tôn giáo của chính giới Mỹ, Ksorkơk và các phần tử chính trị phản động gốc Tây Nguyên lưu vong ở Mỹ cho ra đời cái gọi là “Hội thánh Tin lành Đềga”, đ̣i lập nhà nước Đềga của người Thượng. Đây là một chiêu thức lưu manh chính trị nguy hiểm lôi kéo một số tín đồ không nhỏ của Hội thánh Tin lành miền Nam, tạo nên một vụ áp phe chính trị đội lốt tôn giáo vào đầu năm 2001 và năm 2004.
Vấn đề đạo Tin lành hiện nay vẫn c̣n là một chủ đề “chứa chất nhiều tiềm năng” đối với các thế lực thù địch Việt Nam và các phần tử cơ hội chủ nghĩa trong chính giới Mỹ để họ khai thác trong các chiến dịch nhân quyền và tựdo tôn giáo.
Với tinh thần đảm bảo và tôn trọng quyền phát triển tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân, nhà nước Việt Nam đă có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo, đặc biệt là đối với đạo Tin lành. Nhà nước Việt Nam đă công nhận tư cách pháp nhân của Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) từ năm 1958 và Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) từ đầu năm 2001. Vậy có nghĩa là chúng ta thừa nhận sự tồn tại khách quan của đạo Tin lành ở Việt Nam, từng bước đưa đạo Tin lành vào thể chế luật pháp tôn giáo đểkhai thác những mặt tích cực, nhưng kiên quyết ngăn chặn chống lại bất cứ một nhóm người nào lợi dụng đạo Tin lành để phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân làm hại đến nền văn hoá lành mạnh của dân tộc.
Là một tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Tin lành đă có mặt ở Việt Nam hơn 100 năm. Trong quá tŕnh tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Tin lành đă chọn lựa các h́nh thức hoạt động mềm dẻo, giáo lí và lễ nghi được đơn giản hoá, quần chúng hoá, ở nhiều nơi đă thích nghi dễ dàng với phong tục tập quán của người địa phương, số lượng tín đồ đạo Tin lành ngày càng gia tăng. Điều cốt yếu là tín đồ đạo Tin lành không tách rời với điều kiện lịch sử mới, t́m được nhiều phương sách đúng đắn để hoà nhập trong cộng đồng dân tộc, không đi ngược lại lợi ích của dân tộc. Chúng ta có quyền hy vọng vào một cộng đồng Tin lành ở Việt Nam “kính chúa, yêu nước” “sống phúc âm...” như đường hướng hoạt động của Hội thánh Tin lành miền Bắc và miền Nam đề ra.
TRẦN THANH GIANG
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Xuân Hùng, Vềnguồn gốc và sự xuất hiện tên gọi đạo Tin lành tại Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Số 3, 2001.
2. Nguyễn Xuân Hùng, T́m hiểu những hệ quả của việc truyền giáo Tin lành đối với văn hoá truyền thống và tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Số 1, 2001.
3. Phạm Đăng Hiển, Góp một góc nh́n về vấn đề đạo Tin lành ở Tây nguyên, Tạp chí Dân tộc học, Số 5, 2003.
4. Nguyễn Thanh Xuân, Bướcđầu t́m hiểu đạo Tin lành trên thế giới và ở Việt Nam, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2002.
5. Nguyễn Văn Trung, Một số hiểu biết về tôn giáo ở Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993.
NDVN, ngày 8/1/2013