Bại tướng Ngô Quang Trưởng
Bại tướng Ngô Quang Trưởng |
|
Những ngày dài sống lưu vong trên đất Mỹ, Ngô Quang Trưởng không giống những tướng tá của chế độ Sài G̣n trước đây là tham gia vào những cuộc hội họp hay b́nh luận về sự kiện giải phóng Sài G̣n hay phân tích những nguyên nhân bại trận của họ. Ông ta sống rất lặng lẽ trong nỗi trầm uất cay đắng của một viên tướng thua cuộc. Ai đó có cố gắng gặng hỏi một điều ǵ về một thời chiến cuộc, ông ta đều tảng lờ sang một câu chuyện khác...
Trong số tướng lĩnh của quân đội Sài G̣n trước năm 1975, trung tướng Ngô Quang Trưởng được xem như là một ông tướng cứng rắn, kỷ luật và khá "sạch sẽ", tận tụy với chức phận của một quân nhân. Ông ta từng là cứu cánh của Tổng thống chế độ Việt Nam cộng ḥa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu khi Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị-Thiên của ta nổ súng tấn công và làm chủ các cụm cứ điểm của ngụy ở vùng giới tuyến Quảng Trị. Tuy nhiên, trước những đ̣n tấn công như vũ băo của Quân giải phóng, Ngô Quang Trưởng đă không thể cầm cự mà phải tháo chạy cùng đoàn quân thất trận của ḿnh để t́m đường di tản về Sài G̣n, rồi sau đó, tiếp tục những tháng ngày lưu vong trong nỗi cô đơn cay đắng nơi đất khách quê người cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng vào ngày 22/1/2007.
Chặng đường binh nghiệp
Ngô Quang Trưởng sinh năm 1929 tại Kiến Ḥa, một vùng đất thuộc vùng châu thổ sông Mê Kông, đồng bằng sông Cửu Long trong một gia đ́nh điền chủ, có người anh trai là một tay buôn bán phụ tùng ôtô có tiếng ở Sài G̣n. Sau khi tốt nghiệp trung học ở Mỹ Tho, Ngô Quang Trưởng theo học Khóa 4 Liên trường vơ khoa sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Ra trường năm 1954 với cấp bậc thiếu úy, ông ta được điều chuyển ra miền Bắc tăng cường cho Tiểu đoàn 5 nhảy dù đang tham chiến tại mặt trận Điện Biên Phủ. Tuy nhiên, khi tân thiếu úy Ngô Quang Trưởng có mặt ở đơn vị th́ cuộc chiến ở Điện Biên Phủ đă kết thúc. Quay về miền Nam với "chiến tích" thoát chết ở Điện Biên Phủ, ông ta được bổ nhiệm làm Đại đội trưởng Đại đội 1 của Tiểu đoàn 5 nhảy dù.
Tháng 5/1955, Ngô Quang Trưởng tham gia cuộc tiễu trừ quân phiến loạn B́nh Xuyên. Sau khi chiến dịch tiễu trừ này kết thúc, viên chỉ huy lực lượng lính dù là Nguyễn Chánh Thi được Ngô Đ́nh Diệm ưu ái gắn trên vai chiếc lon trung tá, c̣n Đại đội trưởng Đại đội 1 Ngô Quang Trưởng th́ được gắn lon trung úy một cách khá dễ dàng. Ngày 11/11/1960, Nguyễn Chánh Thi đă cầm đầu một nhóm sĩ quan trẻ làm đảo chính nhằm hạ bệ anh em Diệm-Nhu, nhưng bất thành nên phải đào tẩu sang Nam Vang tị nạn. Sau biến cố này, Ngô Quang Trưởng được gắn lon đại úy. Năm 1964, Trưởng lên thiếu tá và được cử giữ chức tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 nhảy dù.
Năm 1965, Ngô Quang Trưởng được thăng cấp trung tá và được cử giữ chức Tham mưu trưởng Sư đoàn nhảy dù. Một năm sau, Ngô Quang Trưởng lại được thăng cấp đại tá và được bổ nhiệm làm Tư lệnh phó Sư đoàn dù, dưới quyền chỉ huy của tướng Dư Quốc Đống.
Năm 1966, sau biến cố bạo động ở miền Trung, Ngô Quang Trưởng được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 1 bộ binh, dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng Hoàng Xuân Lăm - Tư lệnh Quân đoàn 1 - Vùng 1 chiến thuật. Năm 1967, những đơn vị như đại đội hắc báo trinh sát, Chi đoàn 2/7 thiết vận xa M113, tăng phái Tiểu đoàn 9 nhảy dù thuộc Sư đoàn 1 bộ binh do Trưởng làm tư lệnh đă có nhiều cuộc giao tranh với Quân giải phóng ở mặt trận Thừa Thiên. Để cổ vũ tinh thần cho viên tư lệnh chiến trường, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và các quan thầy người Mỹ đă không ngần ngại gắn lên vai Ngô Quang Trưởng chiếc ga-lông chuẩn tướng. Tháng 5/1968, sau chiến cuộc Mậu Thân, Trưởng được phong hàm thiếu tướng và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn 4 - Vùng 4 chiến thuật (khu vực miền Tây Nam Bộ). Tháng 11/1970, Ngô Quang Trưởng được thăng quân hàm trung tướng.
Từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 5/1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị-Thiên của Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện những đợt tấn công như vũ băo vào các cứ điểm của quân đội VNCH đóng dọc theo vùng giới tuyến, tiêu diệt rất nhiều sinh lực của ngụy binh và cố vấn Mỹ. Nhiều đơn vị lính ngụy ở Cam Lộ, Gio Linh, Đông Hà, Ái Tử và thị xă Quảng Trị bị đánh tan tác, số ră ngũ, số đầu hàng xin được trở về với Cách mạng…
Đầu tháng 5/1972, Ngô Quang Trưởng được Nguyễn Văn Thiệu triệu hồi từ Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 ở Cần Thơ về Sài G̣n để giao nhiệm vụ mới. Ngay sau đó, Trưởng đă đáp máy bay ra Huế để thay trung tướng Hoàng Xuân Lăm làm Tư lệnh Quân đoàn 1 - Vùng 1 chiến thuật với trách nhiệm nặng nề là "tái chiếm thành cổ Quảng Trị từ tay Cộng sản". Tới Huế, ông ta đă thực hiện một chiến dịch tuyên truyền nhằm trấn an binh t́nh một cách huê dạng và sặc mùi cải lương rằng: "Đồng bào ở Huế từ nay không cần phải lo sợ nữa, v́ quân đội Bắc Việt muốn chiếm được cố đô Huế phải bước qua xác chết của tôi…". Sau khi Trưởng nhậm chức ở Vùng 1 chiến thuật, chính quyền Sài G̣n đă ưu ái tăng phái cho viên tướng này toàn bộ lực lượng tổng trừ bị của quân lực VNCH, đồng thời ông ta c̣n nhận được sự yểm trợ từ xa của Hạm đội 7 Hoa Kỳ đang đồn trú ngoài Thái B́nh Dương.
Từ đầu năm 1975, Quân giải phóng mở Chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Ngô Quang Trưởng lúc này với tư cách là Tư lệnh Quân đoàn 1 - Vùng 1 chiến thuật đă liên tiếp nhận được những thông tin bại trận từ tiền phương gọi về. T́nh thế của quân đội Sài G̣n ở vùng hỏa tuyến ngày một thêm bi đát, Ngô Quang Trưởng liên tục gọi điện về Sài G̣n để xin Nguyễn Văn Thiệu và đại tướng Cao Văn Viên cho quân đội tăng phái để ḥng cầm cự địa bàn. Tuy nhiên, hỏa lực quá mạnh của Quân giải phóng đă nhanh chóng làm cho đám quan binh ở Vùng 1 chiến thuật sớm tan đàn xẻ nghé. Trưởng phải bay về Đà Nẵng để họp bàn, giao mặt trận Huế lại cho Tư lệnh phó là tướng Lâm Quang Thi chỉ huy. Thế nhưng, với một lực lượng binh sĩ đă hoàn toàn rệu ră về thể xác và suy sụp về tinh thần, đại đa số họ đều có khao khát ră ngũ để cùng với gia đ́nh, vợ con, t́m đường tháo chạy.
Huế giải phóng, Trưởng cùng đám tàn binh của ḿnh co cụm lại ở Đà Nẵng rồi tiếp tục khẩn thiết gọi điện cầu cứu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm bay ra Đà Nẵng để thị sát t́nh h́nh. Khi Trần Thiện Khiêm đến Đà Nẵng, Trưởng đă triệu tập một cuộc họp tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, thị trưởng, bộ tham mưu, và các trưởng pḥng sở của hành chánh để nghe Trần Thiện Khiêm nói chuyện. Trước khi Trần Thiện Khiêm đến, Trưởng đă có cuộc gặp với những thành viên dự họp với đề nghị phải nói thẳng cho thủ tướng biết thực trạng ở Vùng 1 chiến thuật. Nhưng sau khi nghe Trần Thiện Khiêm nói chuyện xong, trong phần tranh luận chẳng có ai phát biểu điều ǵ cả, chỉ duy nhất có đại tá Kỳ - Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị có ư kiến xin thủ tướng cho biết phải làm ǵ đối với số công chức đă tự ư rời nhiệm sở trong những ngày qua...? Nhưng, Trần Thiện Khiêm cũng không trả lời mà lại lảng sang một chuyện khác…
Ngày 24/3, quân lính Tiểu khu Quảng Tín rút chạy về Đà Nẵng, và cũng ngày này Tiểu khu Quảng Ngăi rút về Chu Lai. Ngày 26/3, Sư đoàn 2 rút ra Cù Lao Ré (đảo Lư Sơn). Thành phố Đà Nẵng lên cơn sốt hỗn loạn và t́nh trạng cướp bóc đă xảy ra tại kho gạo gần thương cảng Tiên Sa.
Sáng ngày 28/3, Trưởng cho triệu tập các cấp chỉ huy để t́m biện pháp văn hồi trật tự và tái trang bị cho những đơn vị đang có mặt trong thành phố. Nhưng kế hoạch không thi hành được v́ không đủ quân số tác chiến, hầu như thời điểm này một số lớn sĩ quan đă bỏ pḥng sở để đi lo chuyện gia đ́nh, chỉ có Văn pḥng Tư lệnh Vùng 1 chiến thuật là c̣n làm việc, c̣n tất cả pḥng ban trong Bộ tư lệnh hầu như đă hoàn toàn tê liệt.
Sáng sớm ngày 29/3/1975, Quân giải phóng ồ ạt tiến quân vào Đà Nẵng. Những cánh quân của Sư 324B, Sư 325 đang hừng hực khí thế chiến thắng đă làm cho quan quân thuộc nhiều binh chủng của quân đội Sài G̣n kinh hồn bạt vía. Ngô Quang Trưởng cùng một vài thuộc cấp thân tín của ông ta như: đại tá Duệ (Tỉnh trưởng Thừa Thiên), đại tá Kỳ (Tỉnh trưởng Quảng Trị), trung tá Tuân (Pḥng 3 - Quân đoàn 1)…í ới gọi nhau t́m đường chạy ra băi biển để bơi ra tàu HQ 404 t́m đường tháo chạy. Theo lời kể của một viên sĩ quan quân đội Sài G̣n có mặt trên chuyến tàu hôm đó, sau khi được thuộc cấp d́u ra tàu, khi lên được trên tàu, Ngô Quang Trưởng đă ngất lịm đi v́ mệt và đói. Khi chiếc tàu này đang trên đường di tản về Sài G̣n, tướng Ngô Quang Trưởng c̣n nhận được một lệnh khẩn của tổng thống Thiệu chỉ đạo hăy quay lại để "tái chiếm Đà Nẵng", nhưng với một thực tế quá đỗi bẽ bàng, tướng Trưởng đành phải phúc đáp cho Nguyễn Văn Thiệu rằng hiện tại ông ta không thể lấy ai để mà thi hành nhiệm vụ v́ lính tráng th́ đă mỗi người một nơi, cấp chỉ huy th́ mạnh ai nấy thoát…
Về Sài G̣n, Ngô Quang Trưởng đi thẳng đến Tổng y viện Cộng Ḥa để xin nhập viện v́ bị khủng hoảng tinh thần. Sau khi ra viện, ông ta được bổ nhiệm vào Bộ Tư lệnh hành quân lưu động ở Bộ Tổng tham mưu. Tại đây, ông ta lại phải chứng kiến một h́nh ảnh rất đỗi đắng cay khi nh́n thấy những thuộc cấp của ḿnh là phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (Tư lệnh hải quân Vùng 1 duyên hải) và chuẩn tướng Nguyễn Văn Khánh (Tư lệnh Sư đoàn 1 không quân) đang ngồi viết tường tŕnh cùng với tướng Lâm Quang Thi đang chịu án quản thúc v́ thất trận.
Những ngày cuối tháng 4/1975, một sĩ quan lục quân Mỹ từng làm việc với tướng Trưởng đă đến gặp gia đ́nh ông ta và đề nghị di tản khỏi Sài G̣n trước khi Quân giải phóng từ mọi hướng đổ về làm chủ thành phố. Vợ con Ngô Quang Trưởng theo sự hướng dẫn của viên sĩ quan người Mỹ xuống tàu thủy để ra đi. Riêng Ngô Quang Trưởng, phải đến ngày 30/4/1975, mới được Nguyễn Cao Kỳ lái máy bay để đưa ra Hạm đội 7, rồi từ đó ông ta đến đảo Guam để đoàn tụ gia đ́nh. Tại đây, gia đ́nh Trưởng được đại tá Sauvageot đến để cho biết rằng, tướng Cushman (từng là cố vấn quân sự của Mỹ tại Vùng 4 chiến thuật) cử ông ta đến để đón gia đ́nh Trưởng về cùng sinh sống với gia đ́nh Cushman tại Trường chỉ huy tham mưu Leavenworth. Tại đây, với sự giới thiệu của Cushman, Trưởng và người con trai tên Diệp bắt đầu đi học nghề nông ở một nông trại cho đến lúc chuyển đến định cư tại Falls Church Virginia - miền Đông nước Mỹ.
Gia đ́nh và những năm tháng lưu vong
Chuyện t́nh duyên của Ngô Quang Trưởng sau này được ông Nguyễn Tường Thiết (là anh họ của vợ ông Trưởng) thuật lại rằng: Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ XX, ở Sài G̣n người ta đă râm ran bàn tán về một chuyện t́nh tay ba giữa hai sĩ quan trẻ tuổi trong quân lực VNCH. Hai sĩ quan đó, một ở binh chủng không quân, một ở binh chủng nhảy dù, c̣n người đẹp đă làm cho hai trái tim kia cùng dậy sóng chính là cô con gái lớn của nhà văn Thạch Lam tên là Nguyễn Tường Nhung. Hai quân nhân cùng theo đuổi và yêu một cô gái trong những năm tháng chiến tranh âu cũng là chuyện thường t́nh. Điều đặc biệt ở đây hai sĩ quan trẻ tuổi này là đôi bạn chơi rất thân với nhau. Trong điều kiện chiến tranh, sống chết đối với những quân nhân tác chiến là chuyện có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Hai người này đă giao ước với nhau trong t́nh bạn là nếu người nào nằm xuống trước th́ người c̣n lại sẽ nguyện suốt đời chăm sóc cho cô gái kia. Thế rồi, trong một chuyến bay, người sĩ quan không quân kia đă không may bị tử nạn. Từ đó, định mệnh đă đẩy đưa cô con gái lớn của một nhà văn danh tiếng thời Tự Lực Văn Đoàn gắn bó cuộc đời ḿnh với viên sĩ quan của binh chủng nhảy dù có tên là Ngô Quang Trưởng. Ông Trưởng và bà Nhung lấy nhau có 4 người con và sống với nhau cho đến ngày ông Trưởng trút hơi thở cuối cùng lúc 3h sáng ngày 22/1/2007.
Những ngày dài sống lưu vong trên đất Mỹ, Ngô Quang Trưởng không giống những tướng tá của chế độ Sài G̣n trước đây là tham gia vào những cuộc hội họp hay b́nh luận về sự kiện giải phóng Sài G̣n hay phân tích những nguyên nhân bại trận của họ. Ông ta sống rất lặng lẽ trong nỗi trầm uất cay đắng của một viên tướng thua cuộc. Ai đó có cố gắng gặng hỏi một điều ǵ về một thời chiến cuộc, ông ta đều tảng lờ sang một câu chuyện khác. Có chăng, Ngô Quang Trưởng cũng chỉ ngậm ngùi bảo rằng "bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng. Vong quốc chi đại phu bất khả ngôn trí", có nghĩa là ông ta cũng biết rơ thân phận của ḿnh là một viên tướng bại trận th́ không thể nói ḿnh anh dũng. Một người phải bỏ xứ sở để ra đi tị nạn th́ làm sao gọi là người có mưu lược được…
Ước nguyện cuối cùng của một viên tướng bại trận tha hương là được đưa tro cốt về cùng đất mẹ. Mùa hè năm 2008, bà Nguyễn Tường Nhung cùng những đứa con của ḿnh đă làm theo di nguyện ấy, đưa tro cốt
chồng, cha của ḿnh về Việt Nam
Phan Bùi Bảo Thy, ANTG, ngày 14/5/2012
NDVN, ngày 30/12/12